PPP được xây dựng dựa trên nền tảng giao thức điều khiển truyền dữ liệu lớp cao (High-Level Data link Control (HDLC)) nó định ra các chuẩn cho việc truyền dữ liệu các giao diện DTE và DCE của mạng WAN như V.35, T1, E1, HSSI, EIA-232-D, EIA-449. PPP được ra đời như một sự thay thế giao thức Serial Line Internet Protocol (SLIP), một dạng đơn giản của TCP/IP. PPP cung cấp cơ chế chuyển tải dữ liệu của nhiều giao thức trên một đường truyền, cơ chế sửa lỗi nén header, nén dữ liệu và multilink. PPP có hai thành phần:
Cả LCP và NCP đều họat động ở lớp 2. Hiện đã có mở rộng của PPP phục vụ cho việc truyền dữ liệu sử dụng nhiều links một lúc, đó là Multilink PPP (MPPP) trong đó sủ dụng Multilink Protocol (MLP) để liên kết các lớp LCP và NCP.
RFC 1661 đề cập tổng quan về giao thức PPP.
Định dạng khung dữ liệu
Chi tiết về định dạng khung của PPP như sau:
Có 5 pha trong quá trình thiết lập kết nối PPP:
Có thể sử dụng cơ chế Piggyback routing để cache lại các thông tin định tuyến và chỉ truyền khi kết nối đã thông suốt.
Trong gói LCP (được chứa trong trường Information của gói tin PPP), trường Code sẽ định ra các gói tin Configure Request (1), Configure Ack (2), Configure Nak (3) nghĩa là không chấp nhận và Configure Reject (4).
Mỗi giao thức lớp 3 đều có NCP code xác định cho nó, và giá trị mã này được đặt trong trường protocol của gói tin NCP, một số giá trị ví dụ như sau:
Tham khảo thêm RFC 1662 và RFC 1549 mô tả cơ chế đóng khung cụ thể.
Chứng thực
Password Authentication Protocol (PAP) Trong pha LCP, khi một kết nối PPP được yêu cầu bởi client và PAP được chọn dùng, access server sẽ ra lệnh cho client sử dụng PAP. Client sau đó sẽ phải gửi bộ username và password của mình, các thông tin này đều được truyền dưới dạng clear text mà không được mã hóa gì cả và được đóng gói trong các gói dữ liệu của PPP. Server sau đó sẽ quyết định chấp nhận hay từ chối việc thiết lập kết nối.Đây là cơ chế PAP một chiều giữa một client và một server. Nếu hai router nói chuyện với nhau thì Two-way PAP (PAP hai chiều) sẽ được sử dụng trong đó mỗi router sẽ gửi username và password, như vậy mỗi router sẽ chứng thực lẫn nhau.
Challenge Handshake Protocol (CHAP)
CHAP được sử dụng phổ biến hơn PAP, do nó có khả năng mã hóa mật khẩu cũng như dữ liệu.
Hai đầu kết nối chia sẻ bộ mã mật secret CHAP giống nhau và mỗi đầu được gán một local name riêng.
Việc băm (Hashing) hoàn toàn khác với việc mã hóa thông tin bởi vì thông tin sẽ không thể được khôi phục lại sau khi thực hiện hàm băm. Trong các router của Nortel Networks Code C223 xác định họat động của CHAP.
RFC 1994 mô tả chi tiết về CHAP trong khi RFC 1334 mô tả các giao thức chứng thực khác. |
Tin mới hơn:
- Publish RD Web Access bằng RD Gateway - (24/10/2010)
- Thiết lập Domain và nhận Email bằng BPOS - (24/10/2010)
- Cấu hình lưu trữ - (24/10/2010)
- Cấu hình và sử dụng print server - (24/10/2010)
- Quản trị mạng không dây hoàn hảo với ZyXel - (24/10/2010)
- 6 cách giúp nâng cấp mạng WiFi - (24/10/2010)
- Giải pháp lưu trữ qua mạng từ router - (24/10/2010)
- Phân tích hệ thống mạng với Colasoft Capsa - (24/10/2010)
- Thiết lập mạng LAN bằng cách chia subnet - (24/10/2010)
- Quản lý máy tính từ xa trong Server 2008 R2 - (24/10/2010)
Tin khác:
- Point to Point Protocol (PPP) - Phần II - (24/10/2010)
- Kiến thức cơ bản về Virtual LANs - (24/10/2010)
- Hiểu thêm về địa chỉ local và global trong NAT - (24/10/2010)
- Router ADSL - Thêm lựa chọn mới - (24/10/2010)
- Cơ bản về Wireless Networking - (24/10/2010)
- Phòng ngừa virus trong các mạng WLAN của doanh nghiệp - (24/10/2010)
- HƯỚNG DẪN CÀI ĐẶT ISA SERVER ENTERPRISE 2000 - (24/10/2010)
- Các dịch vụ khả dụng trên mạng NGN - (24/10/2010)
- Tải xuống quá nhiều sẽ mất băng rộng - (24/10/2010)
- Khám phá vị trí địa lý thông qua địa chỉ IP - (24/10/2010)